Hướng dẫn cho hàng trăm học viên suốt nhiều năm nay, mình nhận ra một trong những lý do khiến cây viết mới gặp khó khăn khi hoàn thành bài vở, là bị bí từ. Trong bài viết lần này, mình chia sẻ đến bạn 5 mẹo nâng cao vốn từ giúp bạn trau dồi vốn từ vựng để viết những nội dung chinh phục độc giả.
Học từ vựng qua âm nhạc

Từ ngày làm công việc viết lách, mỗi lần nghe nhạc hay đọc sách, mình bắt đầu chú ý nhiều hơn đến từ ngữ. Mình phát hiện ra có những ca từ đẹp nhưng đã cũ gần như ngày nay không còn dùng nhiều nữa. Mình thì lại là một người hoài niệm, nên từ cũ mà hay đều đem góp nhặt bỏ vào trong túi ngôn từ.
Trong một lần xem chương trình truyền hình Anh trai vượt ngàn chông gai, mình bị ấn tượng bởi bài hát Áo mùa đông. Mình thích ca khúc này từ khi nghe câu đầu tiên, rồi cũng tìm nhiều phiên bản để nghe thử, cuối cùng lại say mê vì lời bài hát. Trong bài hát có đoạn: “Này người ơi tôi nhớ thấy nhiều. Người bạn tôi trong nắng quái chiều. Ngồi miền quê đan áo.”
Trong câu hát trên, có một từ mình đặc biệt ghi nhớ là “nắng quái chiều”. Lần đầu nghe, mình không rõ nắng quái chiều là nắng gì. Nhưng khi tra Từ điển tiếng Việt, mình hiểu “nắng quái chiều” là nắng yếu lúc chiều tà, khi mặt trời đã hạ xuống đường chân trời.
Ngoài ra còn có một số từ ngữ hay như “gió heo may”: những cơn gió nhẹ, hơi lạnh và khô, thường thổi vào mùa thu; hay từ “manh áo”, đây là một từ cũ, ít dùng, chỉ những chiếc áo mỏng.
Với mình tiếng Việt rất đẹp, rất hay, càng nghe những bài nhạc cũ, mình vô cùng nể phục cách dùng từ của các tác giả xưa. Học từ vựng qua âm nhạc cũng là một cách để nâng cao vốn từ khi viết, bạn thử nhé.
Học từ ngữ qua bài báo, tạp chí
Khi lướt một tờ báo, một bài viết trên mạng hoặc là một từ nào đó hay ho trong cuốn sách, mình sẽ ghi chép lại trong sổ, đồng thời tìm hiểu nghĩa chính xác của nó để áp dụng trong câu văn.
Một lần tình cờ đọc được tựa đề bài báo “Hoa sữa vấn vít trời Hà Nội cuối Xuân”, mình tìm thấy từ “vấn vít”. Từ “vấn vít” còn xuất hiện trong Truyện Kiều qua câu thơ: “Nàng còn đứng tựa hiên tây, chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.” (Truyện Kiều). Thế là, mình ghi chép từ này vào sổ cùng với những cụm từ hay câu nói hay hay, sau đó dùng cho câu viết.
Giải thích theo Từ điển tiếng Việt, “vấn vít” là:
(1) quấn xoắn lại với nhau nhiều vòng
(2) vương vấn trong tâm trí, trong lòng.
Mình áp dụng cách hiểu (1) vào trong viết sách Nằm nghe gió thổi sau hè, ví dụ: “Từng sợi khói bay lên vấn vít nhau trên không trung tạo thành hình thù kỳ lạ. Chúng tôi thi nhau hít hà rồi nhìn nhau cười mặc cho cơn rét buốt cứ cuốn lấy da thịt.”
Hoặc theo cách hiểu (2), mình sẽ viết là: “Cứ mỗi lần chạy xe ngang qua cánh đồng làng, tôi cố ý đạp thật chậm chỉ để hít hà, cảm nhận hương thơm của những bông lúa non. Hương thơm đồng nội thoảng quyện vào trong cánh mũi, dịu nhẹ, cứ mãi vấn vít trong tâm hồn.”
Học từ ngữ qua áng văn ngày bé

Vào những ngày thu gió nhẹ, nhìn mấy bạn nhỏ tung tăng khăn quàng đỏ đến lớp mình lại nhớ lại không khí buổi tựu trường ngày xưa. Rồi những trang viết từ truyện ngắn “Tôi đi học” của tác giả Thanh Tịnh cứ in đậm trong đầu.
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường.”
Ngày còn bé, đọc đoạn này mình thích câu này đến nỗi đọc thuộc làu, câu văn đầy chất thơ, lại có những từ ngữ hay nữa, như là “bàng bạc” , như là “mơn man”. Nhưng hồi ấy lại chẳng thể hiểu hết được cái hay, cái đẹp trong câu từ, sau này mới biết “bàng bạc” là từ láy chỉ màu trắng đục, không còn giữ nguyên sắc trắng nữa. Hay “mơn man” để chỉ hành động lướt nhẹ qua bề mặt tạo nên cảm giác dễ chịu.
Và mình áp dụng những từ hay ý đẹp này vào trong trang viết của mình, như “làn gió mơn man” hay “cánh chim ngoài xa bàng bạc”.
Đọc thêm:
10 cuốn sách giúp bạn tăng vốn từ, chữa bí từ khi viết
Bắt bệnh cho người viết: Tại sao không ai đọc bài viết của tôi?
Những nguồn học viết cơ bản miễn phí dành cho người mới bắt đầu
Đọc chủ động và đọc bị động: Phương pháp giúp mình viết tốt hơn trong nhiều năm qua
Học từ vựng qua Từ điển
Mình thường hay nói với học viên, trước khi viết, nên cẩn thận lựa chọn từ thật hay và phù hợp cho vào bài. Khi ấy mới thấy cùng để diễn tả một điều nhưng lại có rất nhiều từ với sắc thái, cấp độ khác nhau. Và để nâng cao vốn từ, cách tốt nhất là đọc và học từ vựng thông qua Từ điển.
Đầu tiên, bạn mở Từ điển ra để tra cứu từ cần dùng. Ví dụ muốn miêu tả nỗi buồn, Từ điển gợi ý các từ: Sau đó bạn ghi chép vào sổ và thử đặt câu hay viết đoạn văn có sử dụng các từ đó. Với cách này, lâu dần bạn sẽ tích lũy được nhiều từ vựng hay ho.
Chẳng hạn, để chỉ sự cô đơn trước không gian vắng vẻ, tĩnh lặng, Từ điển tiếng Việt gợi ý các từ:
– man mác: chiếm cả một khoảng không bao la trải ra trong không gian vắng lặng, gợi tâm trạng cô đơn. Ví dụ: “Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.” – Tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam
– ảm đạm: thiếu ánh sáng và màu sắc, gợi lên sự buồn tẻ. thiếu hẳn vẻ tươi vui, gợi cảm giác rất buồn. Ví dụ: “Trên nền trời ảm đạm…”
– cô quạnh: lẻ loi và hiu quạnh. Ví dụ: “Cuộc đời cô quạnh…”
– hiu quạnh: vắng lặng và trống trải, gây cảm giác buồn, cô đơn. Ví dụ: “Hiu quạnh trong tâm hồn.”
– cô tịch: lẻ loi và vắng lặng
– cô liêu: lẻ loi và hoang vắng
Học từ vựng qua giao tiếp

Mình yêu tiếng Việt, không phải theo kiểu tìm hiểu nghiên cứu như một chuyên gia mà đơn giản chỉ là có những từ ngữ hay, có những câu chuyện tiếng Việt thú vị muốn góp nhặt và chia sẻ với mọi người. Để qua đó, các bạn cũng sẽ học thêm được nhiều từ vựng hay, người Việt ở nước ngoài cũng không quên tiếng mẹ đẻ và chính mình – một người viết cũng sẽ được cọ xát, hiểu nghĩa của từ, dùng từ chính xác hơn trong viết lách.
Và mẹo của mình là, học từ vựng thông qua cuộc sống, qua lời ăn tiếng nói hằng ngày. Ngày còn bé, mình học được những từ láy giàu nhạc điệu, từ một từ đơn một âm tiết, có thể biến thành từ láy như “thoang thoảng”, “tim tím”, “sạch sành sanh”,…
Lớn hơn một chút nữa, mình nhận ra có nhiều đại từ nhân xưng, ví dụ như xưng ngôi thứ nhất thì có nhiều từ như là “tôi”, “mình”, “em”, “chị”, “con”, “cháu”,… Thậm chí khi dùng để xưng ngôi thứ nhất nhưng lại lấy từ chỉ ngôi thứ ba, ví dụ: “Đợi người ta đi với!”.
Rồi mình cũng phát hiện có những từ nghĩa khác hẳn, thậm chí ngược nhau nhưng khi kết hợp với một từ/cụm từ khác thì lại mang nghĩa giống nhau. Ví dụ: “ấm” và “lạnh” khác nhau, nhưng “áo ấm” và “áo lạnh” lại giống nhau;
Tiếng Việt ở mỗi vùng miền lại có những sự khác nhau, càng đi nhiều mình lại hiểu biết nhiều hơn về từ ngữ địa phương của mỗi vùng miền. Ví dụ nói về một loài cá sống ở vùng nước ngọt, mình có cá lóc, cá tràu, cá quả. Hoặc để chỉ bị bệnh, có nơi dùng là “ốm”, có nơi dùng từ “bệnh” và có nơi lại dùng “đau”.
Ngoài ra với từ “ốm” một số nơi còn được dùng mang nghĩa là “gầy”. Ví dụ: “Cậu ấy ốm quá!” cũng có nghĩa là “Cậu ấy gầy quá!”
Học từ vựng qua âm nhạc, qua sách báo, qua những áng văn ngày xưa,… là cách mình nâng cao vốn từ, nuôi dưỡng tình yêu tiếng Việt, để mình nhìn mọi thứ xung quanh dịu dàng hơn, đẹp hơn; từ chiếc lá xanh biếc, những đám mây hình nấm lững lờ trôi hay nắng vàng như rót mật,… Và càng khám phá nhiều từ ngữ hay, mình lại càng thích viết chúng ra gửi đến mọi người.