Tiếng Việt giàu đẹp: Nâng cấp vốn từ bằng cách bỏ túi những từ tiếng Việt xưa cũ ngày nay ít dùng

Mình thích những cái gì thuộc về xưa cũ, như là những trang sách cũ, những bài thơ cũ hay là những từ tiếng Việt cũ. Mình thấy trong những điều xưa cũ luôn chứa đựng nhiều cái hay, cái đẹp và muốn được khám phá nhiều hơn. Dù ngày nay những từ cũ này không còn được dùng phổ biến, thậm chí đã bị lãng quên theo thời gian, nhưng mỗi lần đọc lên mình thấy hoài niệm. Vì vậy, mình quyết định tổng hợp trong bài viết này để bạn có thể tham khảo thêm những từ tiếng Việt đẹp ngày xưa và nâng cấp vốn từ khi viết.

Từ chỉ trạng thái

Tiếng Việt giàu đẹp: Nâng cấp vốn từ bằng cách bỏ túi những từ tiếng Việt xưa cũ ngày nay ít dùng
Nguồn ảnh: Sincerely Media, Unsplash

Khi đọc Nằm nghe gió thổi sau hè, nhiều độc giả hỏi mình làm thế nào để nâng cấp vốn từ, có vốn từ tiếng Việt dồi dào như vậy, cách mình làm là đọc nhiều tác phẩm văn học của các tác giả ngày xưa, kết hợp với tham khảo Từ điển tiếng Việt. Một số từ mình góp nhặt như là:

– dìu dặt: Nghĩa là lúc nhanh lúc chậm một cách nhịp nhàng và êm nhẹ (thường nói về âm thanh). Ví dụ: “Tiếng gió dìu dặt buông lơi như thể gọi mời hoa lá đến chung vui.”

– nắc nỏm: Từ này có hai nghĩa, một là chỉ trạng thái nôn nao hồi hộp vì một việc biết là sắp đến nhưng chưa biết cụ thể ra sao. Ví dụ: “Mới năm ngoái thôi, căn nhà mái ngói ba gian cũ kỹ kia lụp xụp vô cùng, tưởng chừng có thể ngả đổ bất cứ lúc nào, vậy mà giờ đây khang trang đến lạ. Tôi vừa bước đi, nắc nỏm không biết bây giờ trong nhà còn những ai, lòng bồn chồn không tả được.”. Nghĩa thứ hai chỉ hành động giống như tấm tắc. Ví dụ: “Thấy bộ dáng lanh lợi của bé con, ai cũng nắc nỏm khen bé thông minh”.

– chớp chới: Từ này cũng có ba nghĩa, một là có trạng thái thăng bằng bất định, khi lên khi xuống, khi nghiêng qua khi ngã lại; nghĩa thứ hai là rung rinh và khi mờ khi tỏ; nghĩa thứ ba là nhấp nháy và liếc nhìn một cách không đứng đắn, có ý ve vãn. Ngày nay, chúng ta ít dùng “chớp chới”, thay vào đó từ phổ biến hơn là “chấp chới”, từ láy thường dùng là “chấp cha chấp chới”. 

– xờ xạc: Nghĩa là trạng thái gương mặt có vẻ mệt mỏi, rã rời, giống với phờ phạc. Ví dụ: “Tuổi trẻ và sức sống dường như phai nhạt trên gương mặt ấy, để lại vẻ xờ xạc già nua.”

– xênh xang: Nghĩa là ăn mặc bảnh bao, chưng diện. Ví dụ: “Ước mơ ngày bé của tôi chỉ đơn giản là được mẹ cho một bộ quần áo mới, để xông xênh đi chơi Tết với bạn bè. Vậy là đã mãn nguyện lắm rồi!”

– yên hàn: Nghĩa là yên ổn, hòa bình, không có chiến tranh loạn lạc. “Nếu hỏi tôi yêu quê hương này chừng nào, tôi không trả lời được, cũng không lấy gì đong đếm được. Chỉ là tình yêu vô thức ở trong tim từ những câu chuyện chiến tranh bà kể, rồi lớn dần theo cuộc sống yên hàn thời nay.”

Từ chỉ người, sự vật

Tiếng Việt giàu đẹp: Nâng cấp vốn từ bằng cách bỏ túi những từ tiếng Việt xưa cũ ngày nay ít dùng
Nguồn ảnh: Lilartsy, Unsplash

Có một phương pháp mà mình thường cho học viên trong các khóa học viết cơ bản áp dụng để nâng cấp vốn từ, đó là copyworking. Mỗi khi bắt gặp được một từ, cụm từ hoặc cách diễn đạt hay, bạn thử viết lại một câu, một đoạn văn có chứa từ hoặc cụm từ đó. Thực hành phương pháp này nhiều lần, vốn từ của bạn sẽ được cải thiện nhanh chóng. Dưới đây là một số từ hay ý đẹp mà mình đã góp nhặt được kể từ khi thực hành copyworking trong nhiều năm qua:

– hải miên: Nghĩa là bọt biển. Theo mình, từ này không còn dùng phổ biến, nhưng bạn vẫn có thể sử dụng để đặt tên cho một dự án, một sản phẩm nào đó mà bạn đang kinh doanh. Ngày xưa, khi bắt gặp từ này, mình đã ấp ủ nếu sau này mở một cửa hàng nến thơm, sẽ nghiên cứu và đặt tên cho một sản phẩm là “hải miên” – dòng nến có hương thơm của biển xanh, cát lành ngoài khơi xa. 

– hàng xứ: Có hai nghĩa, một là người ở cùng một xứ, trong quan hệ với nhau, nghĩa thứ hai là người ở đâu đến, xa lạ, không quen biết. 

– loan phượng: Được hiểu là đôi chim phượng, trống và mái, thường dùng để tượng trưng cho cặp vợ chồng tốt đôi.

– xuân huyên: Là cha mẹ, bởi vì “xuân huyên” được ví với cây xuân và cỏ huyên, hai loài cây cỏ sống lâu. Như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu thơ: “Xuân huyên lo sợ xiết bao/ Quá ra khi đến thế nào mà hay!”

Từ chỉ hoạt động

Khi viết tản văn, mình thường có thói quen sử dụng rất nhiều từ chỉ hoạt động, điều đó làm cho câu văn trở nên sinh động hơn, thể hiện sắc thái rõ ràng hơn. Ví dụ, thay vì nói “Mẹ làm việc vất vả, mồ hôi rơi trên áo” thì bạn có thể viết cụ thể về hoạt động ấy thông qua vốn từ đa dạng mà mình có: “Những giọt mồ hôi lấm tấm rơi trên vai áo là cả những nhọc nhằn mà mẹ gánh trên vai.”

Một số từ cũ, từ cổ mà mình ấn tượng, bạn cũng có thể tham khảo để viết những nội dung cũ như là:

– thừa lương: hóng mát.

– thưởng lãm: ngắm nhìn để thưởng thức vẻ đẹp. 

– hàn ôn: hàn huyên, thăm hỏi, trò chuyện tâm tình khi gặp lại nhau sau một thời gian xa cách.

– chạy chợ: Nghĩa là buôn bán nhỏ ở chợ để kiếm sống. Ví dụ: “Quanh năm chạy chợ, gặp gì bán nấy.”

– kê kích: Có hai nghĩa, một là kê cao lên, ví dụ “Nền nhà ẩm, máy móc được kê kích cẩn thận”; nghĩa thứ hai là kê khai khoản nào đó, nâng cao lên, ví dụ “Kê kích tài sản thế chấp.”

Những từ mà mình chia sẻ trong bài này đa phần là từ cũ, từ cổ, khẩu ngữ, từ địa phương. Vậy nên ngày nay, những từ đó có thể không còn được sử dụng rộng rãi nữa, tuy nhiên mình vẫn thường sử dụng trong một số bài viết mang tính cá nhân (viết nhật ký hằng ngày). Mình nâng cấp vốn từ để viết cho khách hàng, để giảng dạy cho học viên và cũng giữ những từ ngữ xưa cũ để thấy rằng tiếng Việt đẹp nhường nào.

Để lại một bình luận

5 mẹo giúp bạn kiểm tra chính tả khi viết

Thời còn đi học, đôi khi mình cũng viết sai chính tả trong mỗi bài tập làm văn. Khi ấy, chẳng có Từ điển để kiểm tra, Internet cũng chẳng phát triển như bây giờ để tra cứu từ. Thế là cô giáo ghi chú lại từng từ sai, màu

Đọc tiếp